1.1 CAO
THUỐC
Extracta
Định
nghĩa
Cao thuốc
là chế phẩm được chế bằng cách cô
hoặc sấy đến thể chất quy định
các dịch chiết thu được từ dược
liệu thực vật hay động vật với các
dung môi thích hợp.
Các dược liệu
trước khi chiết xuất được xử lý
sơ bộ (sấy khô và chia nhỏ đến kích
thước thích hợp). Đối với một số
dược liệu đặc biệt có chứa men làm phân
hủy hoạt chất cần phải diệt men
trước khi đưa vào sử dụng bằng cách dùng
hơi cồn sôi, hơi nước sôi hoặc bằng
phương pháp thích hợp khác.
Cao thuốc được chia làm 3 loại:
Cao lỏng: Là chất lỏng
hơi sánh, có mùi vị đặc trưng của
dược liệu sử dụng trong đó cồn và nước
đóng vai trò dung môi chính (hay chất bảo quản hay
cả hai). Nếu không có chỉ dẫn khác, quy ước
1 ml cao lỏng tương ứng với 1 g dược
liệu dùng để điều chế cao thuốc.
Cao
đặc:
Là khối đặc quánh. Hàm lượng dung môi sử
dụng còn lại trong cao không quá 20%.
Cao
khô:
Là khối hoặc bột khô, đồng nhất nhưng
rất dễ hút ẩm. Cao khô không được có
độ ẩm lớn hơn 5%
Phương pháp điều chế
Quá trình
điều chế cao thường có 2 giai đoạn:
Giai đoạn I
Chiết
xuất dược liệu bằng các dung môi thích hợp.
Tùy theo bản chất của dược liệu, dung môi,
tiêu chuẩn chất lượng của thành phẩm
cũng như điều kiện, quy mô sản xuất và
trang thiết bị, có thể sử dụng các
phương pháp chiết xuất: ngâm, hầm, hãm, sắc,
ngâm kiệt, chiết xuất ngược dòng, chiết
xuất bằng thiết bị siêu âm, chiết xuất
bằng phương pháp sử dụng điện
trường và các phương pháp khác. Phương pháp ngâm
nhỏ giọt thường được sử
dụng. Khi đó, dược liệu thô đã được chia nhỏ
đến kích thước phù hợp, được làm ẩm
với một lượng dung môi vừa đủ rồi
đậy kín để yên trong khoảng 2 - 4 giờ. Sau
đó, chuyển khối dược liệu vào bình ngấm
kiệt, thêm lượng dung môi vừa đủ
đến khi ngập hoàn toàn khối dược liệu. Thời
gian ngâm lạnh và tốc độ chảy trong quá trình
chiết có thể thay đổi theo khối lượng
và bản chất của dược liệu thô đem chiết.
Giai đoạn II
Cao lỏng: Sau khi thu được
dịch chiết, tiến hành lọc và cô dịch chiết
bằng các phương pháp khác nhau để thu
được cao lỏng có tỷ lệ theo như quy ước (1 ml cao lỏng
tương ứng với 1g dược liệu). Trong
trường hợp điều chế cao lỏng bằng
phương pháp ngâm nhỏ giọt, tốc độ
chảy cuả dịch chiết có thể chậm, vừa
hay nhanh. Nếu chiết xuất 1000 g dược liệu
thì :
Ở tốc độ chậm: Không
quá 1 ml dịch chiết/ phút,
Ở tốc độ vừa: 1 -
3 ml dịch chiết/ phút
Ở tốc độ nhanh: 3 - 5ml
dịch chiết/ phút .
Để
riêng phần dịch chiết đầu đậm
đặc bằng 4/5 lượng dược liệu
đem chiết. Sau đó cô các phần dịch chiết
tiếp theo trên bếp cách thuỷ hoặc cô dưới áp
suất giảm ở nhiệt độ không quá 60 ºC cho
đến khi loại hết dung môi. Hoà tan cắn thu
được vào trong dịch chiết đầu
đậm đặc và nếu cần, thêm dung môi vào
để thu được cao lỏng đạt tỷ
lệ quy định. Cao lỏng có khuynh hướng
bị lắng cặn vì vậy để cao lỏng ở
chỗ mát trong thời gian ít nhất 3 ngày, rồi lọc.
Cao
đặc và cao khô: Dịch chiết được cô
đặc đến khi độ ẩm còn lại không
quá 20%. Trong trường hợp điều chế cao khô,
tiếp tục sấy khô để độ ẩm còn
lại không quá 5%. Để đạt đến thể
chất quy định, quá trình cô đặc và sấy khô
dịch chiết thường được tiến hành
trong các thiết bị cô dưới áp suất giảm
ở nhiệt độ không quá 60 oC. Nếu không
có các thiết bị cô đặc và sấy dưới áp
suất giảm thì được phép cô cách thủy (không
được cô trực tiếp trên lửa) và sấy
ở nhiệt độ không quá 80 oC.
Trường hợp muốn
thu cao thuốc có tỷ lệ tạp chất thấp,
phải tiến hành loại tạp chất bằng các
phương pháp thích hợp tuỳ thuộc vào bản
chất cuả dược liệu, dung môi và phương
pháp chiết xuất.
Có thể cho
thêm chất bảo quản hoặc các chất trơ để làm chất mang hay để cải
thiện các tính chất vật lý. Đối với cao khô
có thể sử dụng các bột trơ thích hợp hay cao
khô của dược liệu sử dụng để
điều chỉnh nồng độ hoạt chất
đến tỷ lệ quy
định.
Yêu cầu chất lượng
Đạt
các yêu cầu theo quy định trong chuyên luận riêng và
đạt các yêu cầu chung sau đây:
Độ tan: Cao lỏng phải tan
hoàn toàn trong dung môi đã sử dụng để
điều chế cao. Độ
trong, mùi vị, độ đồng nhất và màu sắc:
Cao thuốc phải đúng màu sắc đã mô tả trong
chuyên luân riêng, có mùi và vị đặc trưng của
dược liệu sử dụng. Ngoài ra, cao lỏng còn
phải đồng nhất, không có váng thuốc, không có
cặn bã dược liệu và vật lạ.
Cách tiến
hành: Lấy riêng phần phía trên của chai thuốc chỉ
để lại khoảng 10 - 15 ml. Chuyển phần còn
lại trong chai vào một bát sứ men trắng, nghiêng bát
cho chúng chảy trên thành bát tạo thành một lớp
dễ quan sát. Quan sát dưới ánh sáng tự nhiên,
thuốc phải đạt các yêu cầu quy định.
Nếu không đạt phải thử lại lần hai
với chai khác, nếu không đạt coi như lô thuốc
không đạt chỉ tiêu này.
Mất khối lượng do làm khô (nếu
không có chỉ dẫn khác):
Cao
đặc không quá 20%.
Cao khô không
quá 5%.
Hàm lượng cồn: Đạt
90 - 110% lượng ethanol ghi trên nhãn (áp dụng cho cao
lỏng và cao đặc).
Kim loại nặng: Đáp
ứng yêu cầu qui định trong chuyên luận riêng.
Dung môi tồn dư: Nếu
điều chế với dung môi không phải là
cồn, nuớc hay hỗn hợp cồn - nước, dư
lượng dung môi sử dụng phải đáp ứng yêu
cầu qui định trong Phụ lục 10.14 Xác định
dung môi tồn dư.
Dư
lượng hóa chất bảo vệ thực vật: Đáp
ứng yêu cầu quy định trong Phụ lục 12.17 Dư
lượng hóa chất bảo vệ thực vật.
Giới hạn nhiễm khuẩn: Đáp
ứng yêu cầu qui định trong Phụ lục 13.6
Thử giới hạn nhiễm khuẩn.
Bảo
quản
Cao thuốc
được đựng trong bao bì kín, để nơi
khô, mát, tránh ánh sáng, nhiệt độ ít thay đổi.
Nhãn: Ghi tên
bộ phận dùng của cây thuốc, tên dung môi (nếu
không phải là dung môi cồn, nước hay hỗn hợp
cồn - nuớc), hàm lượng (%) của hoạt
chất hoặc của hợp chất nhận dạng
được quy định theo từng chuyên luận
riêng, tên và nồng độ của chất bảo
quản thêm vào. Khi hoạt chất chưa biết, tỷ
lệ giữa dược liệu và sản phẩm
cuối cùng phải được nêu rõ. Đối
với cao đặc và cao khô, loại và số
lượng tá dược thêm vào cũng được nêu
ra. Trong trường hợp này, % của cao tự nhiên
cũng phải được ghi rõ.