12.18 ĐỊNH TÍNH DƯỢC
LIỆU VÀ CÁC CHẾ PHẨM BẰNG KÍNH HIỂN VI
Định tính bằng kính hiển vi là phương
pháp sử dụng kính hiển vi để nhận biết
các đặc điểm của các mô, tế bào hoặc
các chất chứa trong tế bào, ở các lát cắt,
bột, các mô đã được làm rã ra, hoặc các tiêu
bản bề mặt của dược liệu và các
chế phẩm. Việc chọn mẫu đại diện
để định tính và sự chuẩn bị tiêu
bản phải phù hợp với những yêu cầu về
định tính của mỗi loại mẫu cần kiểm
tra. Các tiêu bản của các chế phẩm được
chuẩn bị sau những xử lý thích hợp tuỳ theo
các dạng chế phẩm khác nhau.
1. Tiêu bản dược liệu
Lát cắt ngang hoặc dọc
Chọn
lấy một mẩu dược liệu thích hợp sao
cho có đủ các đặc điểm thực vật
như sau:
Thân và
rễ nhỏ: Lấy một đoạn có đủ
mặt cắt ngang.
Thân,
rễ to và rễ củ: Lấy một phần có mặt
cắt ngang hình quạt (có cấu tạo từ biểu bì
đến tâm).
Vỏ
thân: Lấy một phần cắt ngang hình chữ nhật
(có cấu tạo từ bần đến tầng phát sinh
libe-gỗ).
Lá:
Lấy một đoạn gân giữa có dính mỗi bên
một ít phiến lá.
Hoa: Bóc
biểu bì hay cắt ngang từng bộ phận.
Quả
và hạt nhỏ: Lấy nguyên cả quả và hạt.
Quả
và hạt to: Lấy một phần, chọn vị trí
cắt có đủ các đặc điểm.
Dùng
lưỡi dao cạo, ống cắt vi phẫu cầm tay
hay máy cắt vi phẫu cắt mẩu dược liệu
thành từng lát mỏng 10 - 20 µm. Cũng có thể kẹp
mẫu trong parafin rắn, củ khoai lang, củ đậu
v.v... để cắt. Trừ chỉ dẫn trong chuyên luận
riêng, lát cắt có thể được soi ngay hoặc
phải qua các bước xử lý sau đây trước
khi đem soi kính:
Ngâm các
lát cắt vào dung dịch
cloramin T 5% (TT) đến khi lát cắt trắng ra thì
rửa sạch cloramin bằng nước
cất.
Ngâm lát
cắt vào thuốc thử cloral
hydrat (TT) khoảng 10 phút rồi rửa sạch bằng
nước cất.
Ngâm lát
cắt trong dung dịch acid
acetic 1% (TT) trong khoảng 2 phút rồi rửa thật
kỹ lại bằng nước cất.
Ngâm lát
cắt trong dung dịch lục
iod (TT) hoặc xanh methylen
(TT) trong khoảng từ 1 - 5 giây, rửa nhanh bằng ethanol 60% (TT) rồi
rửa lại bằng nước cất.
Ngâm lát
cắt trong dung dịch carmin 40
(TT) tới khi thấy màu bắt rõ thì rửa bằng
nước cất.
Tiêu bản bột
Lấy
một lượng nhỏ bột (qua rây có kích thước
mắt rây khoảng 250 µm), cho vào một giọt dung
dịch soi (như nước, glycerin, cloral hydrat hay
thuốc thử khác tuỳ thuộc vào mục đích soi)
đã có sẵn trên lam kính, dùng kim mũi mác dàn đều
cho bột thấm dung dịch, đậy lam kính, di nhẹ
lam kính rồi quan sát dưới kính.
Tiêu bản bề mặt
Làm
ẩm và làm mềm mẫu (nếu cần thiết),
cắt lấy 2 mẩu nhỏ khoảng 4 mm2 (một
mẩu để soi và một mẩu để đối
chiếu) hoặc tước lấy một đoạn
biểu bì, đặt lên một lam kính, thêm thuốc
thử thích hợp rồi soi kính.
Tiêu bản mô đã làm rã
Nếu
mẫu thử là mô mềm hoặc chỉ có ít, lẻ
tẻ các mô gỗ thì có thể dùng phương pháp kali
hydroxyd. Nếu mẫu thử cứng, có nhiều mô gỗ
hoặc các mô gỗ tụ lại thành bó lớn thì dùng
phương pháp acid cromic - nitric hay phương pháp kali
clorat. Mẫu thử cần được cắt thành các đoạndài
5 mm, đường kính 2 mm hoặc những mẩu nhỏ
dày khoảng 1 mm trước khi làm rã.
a. Phương
pháp kali hydroxyd: Cho
mẫu thử vào một ống nghiệm, thêm dung dịch kali hydroxyd 5% (TT)
vừa đủ, đun nóng nhẹ (hoặc ngâm nóng trong cách
thuỷ) đến khi ép bằng đũa thuỷ tinh thì
mẫu bị vỡ ra. Gạn bỏ dung dịch kiềm,
rửa sạch mẫu bằng nước rồi
đặt mẫu lên lam kính. Dùng kim phẫu thuật xé
mẫu ra rồi quan sát trong glycerin
(TT).
b. Phương
pháp acid cromic-nitric:
Cho mẫu thử vào một ống nghiệm, thêm vừa
đủ thuốc thử acid
cromic - nitric, ngâm đến khi ép bằng đũa
thuỷ tinh thì mẫu bị vỡ ra. Gạn bỏ dung
dịch acid, rửa bằng nước rồi làm tiếp
như phương pháp a.
c. Phương
pháp kali clorat: Cho
mẫu thử vào trong ống nghiệm, thêm dung dịch acid nitric 50% và một ít bột kali clorat (TT), đun nóng
đến khi giảm sủi bọt. Thêm một
lượng nhỏ kali clorat đúng lúc để duy trì
sủi bọt nhẹ cho đến khi mẫu bị
vỡ ra khi ép bằng đũa thuỷ tinh. Gạn bỏ
dung dịch acid, rửa sạch mẫu bằng nước
rồi làm tiếp như phương pháp a.
Tiêu bản phấn hoa và bào tử
Nghiền
phấn hoa, bao phấn, hoa nhỏ hoặc túi bào tử
(được làm mềm trong acid
acetic băng (TT)) bằng đũa thuỷ tinh và
lọc vào một ống ly tâm, ly tâm rồi bỏ phần
nước. Thêm vào cắn 1 - 3 ml hỗn hợp mới pha
của anhydrid acetic(TT) - acid sulfuric (TT) (9 : 1), đun
nóng 2 - 3 phút trên cách thuỷ, ly tâm. Rửa cắn bằng nước 2 lần, thêm 3 - 4
giọt dung dịch glycerin 50%
và dung dịch phenol 1%, làm
tiêu bản trong fuchsin - glycerin - gelatin và soi. Có thể dùng cloral hydrat (TT) thay cho fuchsin - glycerin
gelatin để soi.
2. Tiêu bản
của chế phẩm đông dược bao gồm cả
thuốc bột
Để định tính các chế phẩm đông dược bao gồm cả thuốc bột, chuẩn bị tiêu bản như đã mô tả ở mục "Tiêu bản bột" ở phần 1. Lượng mẫu lấy như dưới đây được nghiền thành bột và lấy một lượng bột thích hợp, thêm từng giọt thuốc thử theo yêu cầu, khuấy kỹ để làm tách rời các tế bào hay tổ chức bị dính.
Thuốc bột hoặc của viên nang: Lấy một lượng bột thích hợp, nghiền nhỏ.
Viên nén: Lấy 2 - 3 viên;
Hoàn hồ-nước, hoàn hồ, hoàn mật ong (loại bỏ lớp vỏ bao): Lấy vài viên.
Thuốc ngậm: Lấy 1- 2 viên.
Với hoàn mật ong có thể cắt thành lát mỏng và lấy một lượng mẫu thích hợp hoặc lấy một lượng cắn nhỏ sau khi loại bỏ mật ong và nước để làm tiêu bản.
3. Đo tế bào và
các thành phần của tế bào
Để
đo kích thước tế bào và các thành phần của
tế bào dưới kính hiển vi, có thể dùng trắc
vi kế thị kính. Trước hết, lắp trắc vi
kế thị kính vào thị kính, sau đó định
cỡ bằng bàn soi trắc vi kế. Để
định cỡ, xoay thị kính và di chuyển bàn soi
để cho các vạch trên 2 thang chia độ song song
với những vạch "O" bên trái của chúng trùng
nhau, sau đó tìm những vạch khác ở bên phải. Giá
trị (mm) của một vạch trắc vi kế thị kính
có thể được tính toán trên cơ sở những
vạch chia của 2 thang chia độ giữa những
dòng trùng nhau. Để đo mẫu, đem nhân số
vạch đo được của trắc vi kế
thị kính với giá trị (mm) của mỗi vạch. Nói
chung, phép đo được thực hiện dưới
một vật kính có độ phóng đại lớn, tuy
nhiên, để đo những kích thước lớn
hơn của sợi, lông v.v... thì nên dùng vật kính có
độ phóng đại nhỏ. Ghi lại các giá trị
cực đại và cực tiểu (mm). Cho phép
có một vài giá trị cao hơn hay thấp hơn chút ít so
với yêu cầu quy định trong chuyên luận
dược điển.
4. Phát hiện màng
tế bào
Màng
tế bào hoá gỗ:
Thêm 1 - 2 giọt thuốc
thử phloroglucinol, để yên một lúc, thêm 1
giọt acid hydrocloric (TT),
vùng hoá gỗ xuất hiện màu đỏ tía.
Màng
tế bào hoá bần hay hoá cutin: Thêm thuốc thử
Màng
celulose: Thêm thuốc thử kẽm clorid-iod,
hoặc lúc đầu thêm dung
dịch iod 1% để làm ẩm, để yên 1 phút
rồi thêm dung dịch acid
sulfuric (33 ml acid sulfuric (TT) pha với nước cất vừa đủ 50 ml), sẽ
xuất hiện màu xanh lam hay xanh tím.
Màng
tế bào silic: Không
có sự thay đổi gì khi thêm acid
sulfuric (TT).
5. Phát hiện các
thành phần của tế bào
Tinh
bột: Thêm dung dịch iod (TT), sẽ
xuất hiện màu xanh lam hay xanh tím.
Đặt
mẫu trong dung dịch
glycerin-acid acetic, quan sát dưới kính hiển vi phân
cực thấy hiện tượng phân cực chéo của
các hạt tinh bột, hiện tượng này mất đi
ở những hạt tinh bột bị hoá hồ.
Hạt
aleuron: Thêm dung dịch iod (TT), sẽ
xuất hiện màu nâu hay màu vàng nâu.
Thêm dung dịch thuỷ
ngân (II) nitrat (TT), xuất hiện màu đỏ gạch.
Nếu dược liệu có dầu béo, phải loại
dầu béo bằng ether (TT)
hay ether dầu hoả (TT)
trước khi thử.
Dầu
béo, tinh dầu hay nhựa:
Thêm dung dịch
Trong ethanol 90% (TT), dầu béo không
hoà tan (trừ dầu thầu dầu và dầu bông), trong khi
đó tinh dầu thì hoà tan được.
Inulin: Thêm dung dịch 1- naphthol 10% trong ethanol (TT), sau đó thêm acid sulfuric (TT), các tinh thể
inulin chuyển sang màu đỏ tía và hoà tan nhanh.
Tinh
thể calci oxalat:
Không
hoà tan trong dung dịch acid acetic
loãng (TT), tan trong dung dịch
acid hydrocloric loãng (TT), không sủi bọt.
Hoà tan
chậm trong dung dịch acid
sulfuric 50% (TT), nhưng sau khi để yên một lúc thì
tách ra những tinh thể calci sulfat.
Calci
carbonat: Hoà tan trong dung dịch acid hydrocloric loãng (TT)
và có sủi bọt.
Silic: Không hoà tan trong acid sulfuric (TT).
6. Các thuốc
thử dùng cho phân tích vi thể
Dung
dịch sắt (III) clorid: Hoà tan 1 g sắt (III) clorid (TT) trong
nước và thêm nước vừa đủ 100 ml.
Thuốc
thử cloral hydrat:
Hoà tan 50 g cloral hydrat (TT) trong
15 ml nước và 10 ml glycerin (TT).
Dung dịch glycerin - acid acetic: Hoà lẫn các
thể tích bằng nhau của glycerin (TT), acid acetic băng
(TT) và nước.
Dung
dịch Sudan III: Hoà
tan 0,01 g Sudan III (TT) trong 5 ml ethanol 90% (TT), thêm 5 ml glycerin (TT), lắc kỹ.
Bảo quản trong lọ thuỷ tinh màu nâu và sử
dụng trong thời gian 2 tháng.
Dung
dịch đỏ rutheni: Cho một lượng vừa đủ đỏ rutheni (TT) vào 1 - 2 ml dung dịch natri acetat 10% (TT)
để tạo thành màu đỏ vang. Dung dịch chỉ
pha khi dùng.
Dung dịch phloroglucinol: Hoà tan 1 g phloroglucinol (TT) trong 100 ml ethanol 90% (TT), lọc. Bảo quản trong lọ
thuỷ tinh màu nâu, tránh ánh nắng.
Thuốc
thử acid cromic - nitric:
Hoà tan
10 ml acid nitric (TT) trong 100 ml nước.
Hoà tan
10 g acid cromic (TT) trong 100 ml nước. Trộn lẫn
các thể tích bằng nhau của 2 dung dịch trên
trước khi dùng.
Fuchsin-glycerin
gelatin: Lấy 1,0 g gelatin (TT), thêm 6 ml nước,
ngâm. Thêm 7 ml glycerin (TT),
đun nóng và khuấy nhẹ để được
hỗn hợp đồng nhất. Lọc qua gạc vào
một hộp lồng, thêm một lượng vừa
đủ fuchsin base (lấy 0,1 g fuchsin
base (TT), thêm 600 ml ethanol (TT)
và 80 ml dầu long não để hoà tan), trộn đều
và để cho rắn lại.
Dung
dịch 1 - naphthol:
Lấy 10,5 ml dung dịch 1 -
naphthol 15% trong ethanol (TT), thêm chậm 6,5 ml acid sulfuric (TT), trộn
đều, thêm 40,5 ml ethanol (TT)
và 4 ml nước. Trộn
đều.
Dung
dịch thuỷ ngân (II) nitrat: Lấy 4,5 g thuỷ ngân
(TT), thêm 3 ml acid nitric bốc
khói(TT), trộn đều. Bảo quản trong lọ
thuỷ tinh màu nâu, tránh ánh sáng.
Dung dịch kẽm clorid - iod: Lấy 8 g kali iodid (TT), thêm 8,5 ml
nước để hoà tan. Sau đó thêm 2,5 g kẽm clorid khan (TT), hoà tan
rồi thêm iod (TT) cho
đến bão hoà. Bảo quản trong lọ thuỷ tinh màu
nâu có nút mài.
Dung
dịch lục iod:
Hoà tan 0,3 g lục iod (TT)
trong 100 ml nước, thêm 10
ml ethanol 90% (TT), trộn
đều.
Dung dịch carmin 40: Hoà tan 1 g carmin
40 (TT), 5 g kali sulfat (TT) và
0,5 g phenol (TT) trong 100 ml nước.
12.19. XÁC ĐỊNH CHỈ SỐ
TRƯƠNG NỞ
Chỉ
số trương nở là thể tích (ml) chiếm giữ
của 1 g thuốc, sau khi để trương nở
trong nước hoặc một dung môi khác đã
được quy định trong 4 giờ, gồm tất
cả các chất nhầy bám dính.
Cân
chính xác khoảng 1 g thuốc, để nguyên hoặc
nghiền nhỏ ở mức độ thích hợp theo
chỉ dẫn trong chuyên luận, cho vào 1 ống nghiệm
thuỷ tinh 25 ml có nút mài, chiều cao 120 đến 130 mm, và
chia độ 0,5 ml. Trừ những chỉ dẫn khác, làm
ẩm thuốc với 1,0 ml ethanol
96% (TT), thêm 25 ml nước và đậy nút. Lắc
kỹ 10 phút một lần trong 1 giờ đầu, sau
đó để yên 3 giờ. Ở 1,5 giờ sau khi bắt
đầu thí nghiệm, loại bỏ những thể tích
tự do của chất lỏng còn lại trong lớp
thuốc và những tiểu phân thuốc nổi lên bề
mặt của chất lỏng bằng cách quay ống
nghiệm theo trục thẳng đứng.
Đo
thể tích chiếm giữ của thuốc bao gồm toàn
bộ các chất nhầy bám dính. Mỗi mẫu tiến
hành 3 lần thí nghiệm. Tính chỉ số trương
nở từ kết quả trung bình của 3 lần thí
nghiệm đó.
12. 20 PHƯƠNG PHÁP CHẾ BIẾN
ĐÔNG DƯỢC
Trong
đông y, các vị thuốc được dùng để
uống bao giờ cũng qua khâu chế biến.
Sơ chế (Chế biến sơ bộ):
Nhằm loại bỏ các bộ phận không dùng làm
thuốc (Rễ con, lõi, gốc, hạch...) hoặc
để ổn định dược liệu ngay từ
đầu (phơi, sấy, xông diêm sinh...). Như vậy
qua sơ chế, ta có nguyên liệu ban đầu
được gọi là “thuốc sống”, tuy nhiên
phải đáp ứng được các yêu cầu nhất
định về chất lượng đã đề ra.
Phức chế (chế biến hoàn chỉnh):
Quá trình chế biến phức tạp hơn, nhằm
giảm bớt độc tính, tác dụng không mong muốn
hoặc thay đổi tính năng, tăng sự quy kinh
thuốc, nhiều khi còn ảnh hưởng đến
cấu trúc của hoạt chất và tác dụng của
vị thuốc đem chế. Như vậy qua phức
chế ta thu được nguyên liệu mang ý nghĩa
dược dụng và gọi là “thuốc chín”, đáp
ứng được các yêu cầu trong điều
trị.
Phương pháp dùng
nước
Rửa: Nhằm làm sạch dược liệu, loại
bỏ tạp chất hoặc có thể để khử mùi
hôi tanh của một số dược liệu (dùng nước
sắc của một số dược liệu có tinh dầu).
Nước dùng để rửa phải đạt tiêu
chuẩn nước sạch, thời gian rửa phụ
thuộc vào tính chất của các dược liệu.
Dược liệu có cấu tạo mỏng manh hoặc có
thành phần dễ tan trong nước, hoặc có các
chất nhầy cần rửa nhanh. Dược liệu có
cấu trúc rắn chắc, có mùi vị khó chịu có
thể rửa kỹ. Các dược liệu dễ bị
nát thì không rửa.
Ngâm: Nhằm làm
mềm dược liệu, giúp cho việc bào thái dễ
dàng. Ngâm để loại muối bám vào dược
liệu. Ngâm để giảm tính độc, ngâm
để loại nhớt, ngứa. Nước để
ngâm phải đạt tiêu chuẩn nước sạch,
hoặc các dung dịch muối vô cơ như: Natri clorid,
magnesi clorid, natri sulfat, calci hydroxyd, magnesi sulfat, phèn chua; hoặc
nước sắc dược liệu như: nước
bồ kết, nước cam thảo, nước gạo,
nước gừng.... Thời gian ngâm phụ thuộc vào
nhiệt độ của mùa, mùa hè ngâm nhanh hơn mùa
đông. Dụng cụ để ngâm dược liệu là
thạp sành, bể xi măng, chậu thùng nhựa, không dùng
các dụng cụ bằng kim loại như tôn, sắt..... Quá
trình ngâm phải thường xuyên quấy đảo và thay
nước nhiều lần.
Tẩm: Đem dược liệu
tẩm vào một phụ liệu nào đó, rồi phơi
khô hoặc phơi âm can đến khô.
Ủ: Nhằm làm mềm, giúp cho việc bào thái dễ dàng; để
tạo dáng, ngay sau thu hái; để tạo điều
kiện lên men cho một số dược liệu khi
chế biến, ủ để làm thơm dược
liệu, ủ để phụ liệu chế ngấm vào
dược liệu. Thời gian ủ phụ thuộc vào
mục đích đối với từng loại dược
liệu, nói chung nằm trong khoảng 30 phút đến 2
giờ hoặc lâu hơn (12 - 24 giờ). Trong quá trình ủ,
có thể dùng vải sạch hoặc bao tải sạch
thấm ẩm đậy lên mặt dụng cụ
đựng thuốc.
Thuỷ phi: Là phương pháp tán, nghiền
dược liệu trong nước với mục đích
thu được bột mịn, tránh nhiệt tạo ra
khi tán làm hỏng thuốc, tránh làm dược liệu bị
phân huỷ, sinh chất độc khi nghiền tán trực
tiếp. Cho dược liệu vào dụng cụ tán là sành,
sứ..., không dùng dụng cụ bằng kim loại như
sắt, đồng, tôn..., đổ nước ngập dược
liệu, thường lượng nước gấp 10
lần lượng thuốc. Sau khi tán kỹ, hớt
bỏ bụi rác bên trên, gạn lấy lớp nước
bột huyền phù sang một dụng cụ khác, phần
còn lại tiếp tục làm như thế nhiều
lần. Gộp tất cả nước bột,
để lắng, gạn bỏ lớp nước,
lấy cắn đem phơi âm can hoặc sấy nhẹ
đến khô. Dược liệu thường chế theo
cách này như Thần sa, Chu sa, Thạch quyết minh....
PHƯƠNG PHÁP DÙNG
LỬA (HOẢ CHẾ)
Phương
pháp sao
Dược
liệu đem sao cần có sự phân chia đến kích
thước thích hợp. Nếu là thuốc phiến
thường có kích thước dài 3 – 5 cm, dày 1 – 3 mm,
đồng thời phân ra to nhỏ khác nhau để khi sao
đạt được sự đồng đều
của thuốc và tránh cháy.
Sao không qua chất trung
gian, không cho thêm phụ liệu (Thanh sao)
Vi
sao: Nhằm diệt
men, mốc hoặc làm khô và dậy mùi thơm đối
với dược liệu có cấu tạo mỏng manh
(hoa, lá...), hoặc dược liệu chứa các chất
thơm, tinh dầu....Nhiệt độ sao nằm trong
khoảng 50 - 80 oC, sau khi làm nóng chảo, cho
dược liệu vào, đảo đều đến
khô hoặc có mùi thơm.
Sao
vàng : Nhằm
giảm bớt tính hàn, làm cho thuốc trở lên thơm, làm
tăng quy kinh tỳ. Sau khi làm nóng chảo, cho dược
liệu vào đảo đều, đến khi mặt
ngoài của dược liệu chuyển màu vàng, nhiệt
độ sao khoảng 100 - 150 oC.
Sao
vàng hạ thổ:
Nhằm giảm bớt tính hàn của thuốc, đồng
thời giảm bớt “hoả độc” của
thuốc, mặt khác làm giảm mùi khó chịu của
thuốc. Sau khi sao thuốc tới vàng, nhân lúc còn nóng
lấy ra đổ úp thuốc xuống nền đất
đã quét sạch, đôi khi còn đào một hố sâu 10
cm, rộng 30 cm. Dụng cụ sao úp trên thuốc. Thời
gian hạ thổ thường từ 10 – 15 phút.
Sao
vàng xém cạnh:
Nhằm khử các mùi vị khó chịu của thuốc,
tăng tác dụng tiêu thực của vị thuốc. Sau
khi nóng chảo, cho dược liệu vào, đảo
đều cho đến khi mặt ngoài xém cạnh là
vừa, màu ruột thuốc vẫn giữ nguyên. Nhiệt
độ sao vào khoảng 170 - 200 oC. Thường
tiến hành với các vị thuốc chua, chát hoặc tanh
lợm như Binh lang, Thần khúc, Hoè giác....
Sao
tồn tính (hắc sao): Nhằm tăng tác dụng tiêu thực, chỉ
huyết của vị thuốc hoặc làm thay đổi
tính năng của thuốc. Sau khi chảo nóng già, cho
thuốc vào, đảo đều cho đến khi toàn
bộ mặt ngoài bị đen đi, khi bỏ ra bên trong
vẫn còn màu vàng. Nhiệt độ sao khoảng 200 oC.
Sao
cháy (thán sao):
Nhằm tăng tác dụng chỉ huyết của vị
thuốc. Sau khi chảo nóng già, cho thuốc vào, đảo
đều đến khi toàn bộ mặt ngoài của
thuốc cháy đen (có mùi cháy) bên trong có màu nâu. so với sao
tồn tính thì mức độ cháy cháy hơn. Nhiệt
độ sao khoảng 200 - 240 oC. Kể cả sao
tồn tính và sao cháy, trước khi đổ thuốc ra
thường phun vào một ít nước lạnh
để trừ hoả độc.
Tẩm sao (chích)
Sau khi
tẩm với phụ liệu (nước sắc gừng,
giấm...) rồi đem sao, nhằm tăng sự qui kinh,
tăng tác dụng của vị thuốc.
Tẩm
rượu sao: Dùng
sức nóng, tính thăng đề của rượu
để dẫn thuốc lên thượng tiêu (tác dụng
thăng đề), để giảm bớt tính lạnh của
vị thuốc, giảm bớt mùi vị khó chịu,
tăng cường bổ can thận cho vị thuốc. Dùng
rượu trắng 35 – 40% , với lượng 10 – 15%
(tính theo khối lượng, so với lượng dược
liệu). Sau khi tẩm, ủ thuốc 30 phút đến 1
giờ, đem sao ở nhiệt độ sao vàng, khi có mùi
thơm của rượu bốc lên là được.
Tẩm giấm sao (thố chế): Nhằm tăng
dẫn thuốc vào kinh can đởm, tăng cường tác
dụng giảm đau, tiêu ứ huyết, giảm bớt
mùi tanh của vị thuốc, làm xốp giòn vị thuốc
giúp cho việc dễ tán, dễ chiết xuất. Tẩm dược
liệu với 10 – 15% giấm ăn (tt/kl), ủ 30 phút đến
2 giờ, rồi sao vàng.
Tẩm
nước muối sao (Diêm chế) : Nhằm dẫn thuốc vào
kinh thận và hạ tiêu. Tẩm dược liệu
với 10 - 15% dung dịch muối ăn 5% (tt/kl). Sau khi
tẩm đều, ủ 30 phút đến 1 giờ, rồi
sao vàng.
Tẩm
mật sao (mật chế): Dùng mật ong để chế thuốc. Nhằm
tăng tác dụng dẫn thuốc vào kinh tỳ, tăng tác
dụng bổ khí, nhuận phế và tăng tác dụng hoãn
giải. Thường dùng mật ong dưới dạng mật
luyện (mật ong đun sôi,lọc bỏ tạp, sáp...cô đến
thể tích nhất định), lượng mật được
qui định trong từng chuyên luận, thêm nước
sạch (bằng khoảng 30% lương mật), tẩm đều
vào dược liệu, ủ 1 - 6 giờ. Tiến hành
sao nhỏ lửa, đến khi, sờ không dính tay;
dược liệu có mầu vàng, mùi thơm mật, vị
ngọt. Cũng có thể đem dược liệu, sao
tới khi bên ngoài dược liệu có màu vàng, cho mật
vào, đảo đều, tới khi không dính tay.
Tẩm
nước gừng sao (khương chế): Nhằm giảm bớt tính hàn,
tăng sức phát tán, tăng khả năng tiêu thực, ôn
trung. Tẩm dược liệu với 10 - 15 % dịch
nước gừng tươi (tt/kl), ủ 30 phút đến
1 giờ, đem sao vàng. Gừng già tươi 100 g, rửa
sạch, giã nhỏ, thêm nước sạch, vắt lấy
dịch đủ 100 ml.
Tẩm
hoàng thổ sao:
Nhằm tăng tác dụng quy tỳ vị, giảm bớt
tính háo của. Lấy hoàng thổ (đất sét vàng), đất
lòng bếp (Phục long can) hoặc đất lòng lò gạch,
nghiền mịn, cứ 100 g đất thêm 1 lít
nước đun sôi, quấy đều, gạn bỏ
lớp trên, bỏ cặn, lấy lớp giữa. Cứ 1 kg
dược liệu tẩm với 4 lít nước hoàng
thổ, trộn đều, ủ 2 - 3 giờ. Sao vàng, chà
sát rây bỏ hoàng thổ.
Tẩm sữa: Dùng sữa người (nhũ nhân
chế), sữa dê tươi (dương nhũ chế)
hoặc sữa bò tươi. Nhằm tăng tính
dưỡng huyết, bổ âm và giảm bớt tính háo
của thuốc. Dùng sữa tươi với tỷ
lệ 10 - 15% (tt/kl) để tẩm vào dược
liệu, ủ 30 phút. Vi sao tới thơm.
Tẩm
nước vo gạo (Mễ cam chế): Nhằm giảm tính háo của
thuốc. Dùng nước vo gạo đặc, mới vo,
với tỷ lệ 10 - 15 % (tt/kl), tẩm đều, ủ 4 - 6 giờ, sao vàng.
Tẩm
đồng tiện:
Nhằm tăng tác dụng hoạt huyết, tư âm giáng
hoả. Dùng nước tiểu trẻ em từ 5 - 12
tuổi, khoẻ mạnh, nước tiểu mới
đi, bỏ đoạn đầu đoạn cuối, với
lượng từ 10 - 15 % (tt/kl). Sau khi tẩm trộn
đều, ủ 30 phút đến 1 giờ. Sao vàng.
Tẩm
nước đậu đen, nước cam thảo: Nhằm giảm bớt tính chát
của thuốc (tẩm với nước đậu đen),
tăng khả năng giải độc (tẩm với
Sao qua chất
trung gian
Sao cám: Nhằm làm thơm thuốc,
tăng quy kinh tỳ (hoài sơn, ý dĩ, thần khúc
bạch truật); giảm bớt tính háo của thuốc.
Thường dùng cám gạo, với tỷ lệ giữa
cám và dược liệu là 1/10 (tt/kl). Đầu tiên cho cám
vào chảo đã đun nóng già, quấy đều, tới
khi cám bốc khói trắng, cho dược liệu vào,
đảo đều; sao đến khi bề mặt
thuốc có mầu vàng hoặc thâm; lấy ra, chà xát, rây
bỏ cám.
Sao
cách cát : Do nhiệt
độ nâng cao, phá vỡ cấu trúc rắn của
dược liệu, giúp cho việc bào chế (nghiền,
sắc thuốc ...) thuận lợi, đồng thời
giảm mùi khó chịu, hoặc giảm bớt tính
độc của dược liệu. Nhiệt độ
sao nằm trong khoảng 250 - 300 oC. Cát phải
được làm sạch (đã qua rửa nhiều
lần bằng cách cho nước sạch vào, quấy
nhiều lần, gạn bỏ lớp nước trên, đổ
ra phơi khô, sấy khô), đun
nóng già, cho dược liệu vào đảo đều,
đến lúc mặt ngoài phồng nứt; hoặc
phồng thơm, lấy ra sàng bỏ cát.
Sao
cách bột hoạt thạch hay văn cáp (vỏ hàu): Nhằm khử mùi hôi tanh khó
chịu của thuốc nhất là các dược
liệu có nguồn gốc động vật, đồng thời giúp cho dễ
tán các dược liệu có thể chất dẻo
dính. Đun nóng già bột
trung gian, cho dược liệu vào đảo đều
đến khi phồng giòn, xốp, sàng lấy dược
liệu.
Nướng
(ổi): Nhằm
tăng tính ấm và tăng khả năng dẫn thuốc
vào tỳ vị. Thường dùng các phụ liệu có thể
chất dẻo dính như bột gạo nếp (thêm
nước làm áo bọc thuốc) hoặc giấy bản
ẩm hoặc đất sét bọc thuốc, vùi vào tro nóng
hay nướng trên bếp than.
Đốt
Nhằm làm sạch các
lông, rễ phụ, sau khi phơi khô dược liệu, có
thể đốt trực tiếp hoặc cho dược
liệu lên các dàn sắt để đốt. Cũng có thể dùng nhiệt
của một dụng cụ như dùi sắt đã hơ
nóng đỏ, rồi đốt các lông.
Đốt
rượu
Nhằm làm thơm vị thuốc, đốt cháy các
lông có trên vị thuốc. Thường dùng ethanol 90%
để đốt.
Nung
Làm cho vị thuốc trở nên giòn xốp, có lợi cho việc nghiền tán bột; do ở nhiệt độ cao từ 300- 700 oC, có thể phá vỡ cấu trúc rắn chắc của thuốc, đôi khi có tác dụng giảm độc tính, hoặc biến tính của dược liệu. Thường tiến hành với các dược liệu có thể chất cứng rắn như mẫu lệ, long xỉ, long cốt; hoặc tăng cường tính thu sáp của các vị thuốc như phèn chua, bằng sa...
Nung
trực tiếp: Đặt
dược liệu tiếp xúc trực tiếp trong lò
(nhiệt độ 800 - 1000 oC ), nung cho đỏ
đều, lấy ra để nguội.
Nung gián tiếp:
Cho dược liệu vào nồi nung sạch, đậy
nắp, trát kín bằng đất sét ẩm. Nhiệt
độ nung thường trong khoảng 150 - 200 oC.
Có khi bọc dược liệu vào đất sét, rồi
nung.
Sấy
Nhằm
làm khô dược liệu, để chế biến,
bảo quản trong quá trình phân phối, sử dụng. Tuỳ
theo tính chất của dược liệu để
điều chỉnh nhiệt độ sấy và phương
pháp sấy cho thích hợp. Với các dược liệu chứa
tinh dầu thì nhiệt độ sấy thường ở
50 oC, các dược liệu khác thường sấy
ở 80 oC. Các phương pháp sấy thường
được sử dụng như sấy khô trong tủ sấy ở áp suất
thường, sấy
trên bếp hoặc lò than, sấy bằng hồng ngoại....
Phương pháp
kết hợp nước-lửa
Chưng
Nhằm
thay đổi tính năng, giảm bớt tác dụng
phụ giúp cho việc điều trị tốt hơn. Cho
dược liệu vào dụng cụ chưng thích hợp
như âu sành, inox..., có thể thêm phụ liệu (Sa nhân,
Gừng ...), đậy kín, đặt dụng cụ
chưng này vào một dụng cụ lớn hơn, thêm
nước vừa đủ để đun theo thời
gian quy định cho mỗi dược liệu. Lấy
dược liệu ra phơi hay sấy khô. Có trường
hợp phải chưng, phơi nhiều lần (cửu
chưng, cửu sái), cho đến lúc dược liệu
mềm nhuận, đen bóng.
Đồ
Nhằm
diệt men trong dược liệu để tránh thuỷ
phân hoạt chất, để làm mềm dễ bào thái.
Xếp dược liệu được phân loại to nhỏ
và xếp vào một dụng cụ thích hợp (chõ), loại
to xếp dưới, loại nhỏ xếp trên. Nếu có
phụ liệu thì xếp xen kẽ một lớp
thuốc, một lớp phụ liệu, đậy chõ.
Bắc chõ lên một nồi đáy, trát kín chỗ tiếp
xúc bằng đất sét hay bột nhão của cám và lá khoai,
rồi đồ trong khoảng thời gian qui định,
đến lúc dược liệu chín mềm.
Nấu
Nhằm làm mềm dược liệu, tăng tác
dụng của thuốc, giảm tác dụng không mong
muốn, nhiều khi nấu với phụ liệu khác. Cho
dược liệu vào dụng cụ nấu có dung tích thích
hợp, loại to xếp dưới, loại nhỏ
xếp trên để dược liệu chín đều.
Đáy dụng cụ có thể lót vỉ để tránh
tiếp xúc dược liệu với đáy nồi
nấu. Đổ nước sạch hay dịch phụ
liệu ngập dược liệu 5 - 10 cm. Đun sôi và duy
trì theo thời gian quy định. Trong quá trình đun có thể
gạn nước và thêm nước mới nhiều lần.
Khi dược liệu chín đều, lấy ra thái mỏng,
phơi hoặc sấy khô tới độ ẩm qui
định.
Tôi
Nhằm
làm giòn dược liệu, giúp cho việc nghiền, tán
dễ dàng, đồng thời khử các mùi khó chịu
của thuốc. Dược liệu được rang
cách cát hoặc nung tới khi đạt yêu cầu, khi
đổ ra còn đang nóng thì nhúng ngập nhanh vào nước
hay vào một dung dịch phụ liệu như như
giấm hoặc nước Hoàng liên... Lấy ra phơi hoặc
sấy khô.
Rán dầu
Nhằm làm giảm độc tính của dược
liệu: mã tiền, làm cho dược liệu trở nên
giòn, dễ tán nhỏ: xương báo. Thường tiến
hành với dầu lạc, vừng. Đun sôi dầu. Cho
dược liệu vào; rán cho đến khi có mầu
hơi vàng. Dược liệu nổi lên, thể chất
giòn, xốp. Vớt ra cho nhỏ hết dầu.
Lượng dầu so với dược liệu
thường có tỷ lệ khoảng 20- 30%(tt/kl).
12.20 XÁC ĐỊNH CHỈ SỐ
TRƯƠNG NỞ
Chỉ
số trương nở là thể tích (ml) chiếm giữ
của 1 g thuốc, sau khi để trương nở
trong nước hoặc một dung môi khác đã
được quy định trong 4 giờ, gồm tất
cả các chất nhầy bám dính.
Cân
chính xác khoảng 1 g thuốc, để nguyên hoặc
nghiền nhỏ ở mức độ thích hợp theo
chỉ dẫn trong chuyên luận, cho vào 1 ống nghiệm
thuỷ tinh 25 ml có nút mài, chiều cao 120 đến 130 mm, và
chia độ 0,5 ml. Trừ những chỉ dẫn khác, làm
ẩm thuốc với 1,0 ml ethanol
96% (TT), thêm 25 ml nước và đậy nút. Lắc
kỹ 10 phút một lần trong 1 giờ đầu, sau
đó để yên 3 giờ. Ở 1,5 giờ sau khi bắt
đầu thí nghiệm, loại bỏ những thể tích
tự do của chất lỏng còn lại trong lớp
thuốc và những tiểu phân thuốc nổi lên bề
mặt của chất lỏng bằng cách quay ống
nghiệm theo trục thẳng đứng.
Đo
thể tích chiếm giữ của thuốc bao gồm toàn
bộ các chất nhầy bám dính. Mỗi mẫu tiến
hành 3 lần thí nghiệm. Tính chỉ số trương
nở từ kết quả trung bình của 3 lần thí
nghiệm đó.