12.2. NHỮNG QUY
ĐỊNH CHUNG VỀ KIỂM TRA
CHẤT LƯỢNG DƯỢC LIỆU
Dược liệu trước khi
đưa vào sử dụng đều phải
đưa vào kiểm tra chất lượng
và phải đạt yêu
cầu chất lượng theo tiêu chuẩn đã
đăng ký như tiêu chuẩn dược
điển hoặc tiêu chuẩn cơ sở.
Kiểm tra chất lượng
dược liệu bao gồm việc mô tả,
định tính, các phép thử tinh khiết, xác định hàm lượng chất
chiết được và định
lượng hoạt chất trong dược
liệu. Việc kiểm tra dược liệu
được tiến hành theo quy định sau:
1.
Lấy mẫu
kiểm nghiệm. (Phụ lục 12.1)
2.
Sử
dụng các mô tả của chuyên
luận, một mẫu
đối chiếu (dược
liệu hay chất tinh khiết) thích hợp
đã đạt yêu cầu chất lượng
theo chuyên luận riêng để xác nhận kết
quả kiểm nghiệm.
3.
Nếu
dược liệu được kiểm tra
đã bị vụn nát
thì dược liệu đó vẫn phải
đáp ứng các yêu cầu chung, trừ yêu
cầu về mô tả trong chuyên luận tương
ứng.
4. Nếu dược liệu
đòi hỏi phải được làm
thành bột trước khi định tính,
định lượng thì phải tán
dược liệu đó thành bột, rây
và trộn đều như được mô
tả trong Phụ lục 3.5
và trong chuyên luận riêng.
5.
Chỉ
tiêu “Mô tả” bao gồm những
mô tả về hình thái, kích
thước, màu sắc, mùi vị, các đặc điểm của bề mặt, vết bẻ hay
mặt cắt của
dược liệu hoặc đặc
điểm thể chất của
dược liệu.
a.
“Hình
thái” là hình dạng của dược
liệu khô. Thông thường dược liệu
được quan sát mà không cần xử
lý trước. Các loại dược
liệu là lá hay hoa bị
nhăn nheo, khô quăn có thể được
làm ẩm, làm mềm và trải phẳng
trước khi quan sát. Đối với
một vài loại quả
và hạt nếu cần có
thể được làm mềm và loại
bỏ vỏ hạt để kiểm tra đặc
điểm bên trong.
b.
“Kích thước”
là chiều dài, đường kính và
độ dày của dược liệu. Tiến
hành đo trên một số mẫu. Cho phép một
vài mẫu có giá
trị hơi cao hơn hoặc
thấp hơn giá trị đã xác
định. Sử dụng thước đo chia
vạch tới milimet. Đối với hạt hay vật có kích thước
nhỏ, xếp 10 hạt gần nhau theo một hàng trên
một tờ giấy có chia vạch tới
milimet, đo và tính giá trị trung bình.
c.
“Màu
sắc” của dược
liệu được quan sát bằng
mắt thường ở ánh sáng ban
ngày. Màu có thể
được mô tả bằng các sắc
độ như “hơi”, “đậm” hay “nhạt” (ví
dụ màu hơi vàng, màu vàng đậm,
màu vàng nhạt). Nếu màu
được mô tả là màu phối
hợp của hai màu thì màu chính là
màu ghi trước (ví
dụ trong màu nâu vàng thì màu nâu là
màu chính).
d.
Đặc
điểm bên ngoài, bề mặt vết bẻ hay
cắt ngang của dược liệu thường được quan
sát trên dược liệu chưa sơ chế.
Nếu quan sát thấy những đường
vằn khác nhau trên mặt bẻ thì có
thể cắt phẳng rồi quan sát.
e.
“Mùi”
của dược liệu được kiểm tra bằng cách
ngửi trực tiếp hoặc sau khi bẻ
gãy và vò nát. Cũng có
thể ngửi sau khi làm ẩm dược
liệu bằng nước nóng.
f.
“Vị”
của dược liệu được kiểm tra bằng cách nếm
trực tiếp dược liệu hoặc
nếm dịch chiết nước. Nên cẩn thận khi nếm những vị
thuốc có độc.
6.
Định
tính là những
phương pháp dùng để
nhận biết dược liệu, bao gồm các kinh nghiệm truyền thống,
phương pháp vi học và
các phương pháp lý hóa.
a.
Nhận
biết dược liệu dựa theo kinh
nghiệm bằng
phương pháp đơn giản và truyền
thống như sự
chìm hay nổi trong nước, tiếng nổ,
màu của ngọn lửa hay khói
và mùi khi đốt
cháy dược liệu v.v...
b.
Định
tính dược liệu bằng phương pháp vi học là
việc quan sát đặc điểm của
các tế bào, các mô của lát cắt, của bột hay (trong
một vài trường hợp) của bề mặt dược liệu dưới
kính hiển vi. (Phụ
lục 12.18.)
c.
Định
tính lý học là việc
xác định các chỉ số như độ
tan, tỉ trọng, chiết xuất, năng suất quay
cực v.v…
của các dược liệu. (Phụ lục 6)
d.
Định tính hóa học là phép
thử một vài thành phần trong
dược liệu bằng các
phản ứng hóa học.
Phương pháp tiến hành được
trình bày ở
các chuyên luận dược liệu cụ thể.
e.
Định tính sắc ký là
việc sử dụng các phương pháp
sắc ký như sắc ký lớp
mỏng, sắc ký khí, sắc ký
lỏng hiệu năng cao… để phát hiện
một số thành phần có trong dược
liệu; so sánh với chất chuẩn hay thành
phần trong dược liệu chuẩn. Phương
pháp tiến hành được trình
bày ở Phụ
lục 5 và các chuyên
luận dược liệu cụ thể.
f.
Định
tính huỳnh quang là quan sát
sự phát huỳnh quang của bề
mặt hay mặt cắt
dược liệu hoặc của
dịch chiết dược liệu ở
điều kiện thường hay sau khi cho
tác dụng với acid, kiềm hay
thuốc thử. Trừ khi có quy định riêng trong
chuyên luận, mẫu thử được quan
sát
dưới ánh sáng tử ngoại
ở bước sóng 365
nm, cách nguồn sáng khoảng 10 cm.
g.
Trừ
những qui định trong chuyên luận riêng, định
tính vi thăng hoa thường được
tiến hành như sau: Đặt
một vòng kim loại đường
kính khoảng 2 cm, cao
khoảng 8 mm lên một tấm kim loại mỏng có kích
thước hơi lớn hơn. Trải một
lớp mỏng bột dược liệu trong
vòng kim loại và đậy kín
bằng một phiến kính bên trên cso đặt
một miếng bông tẩm nước lạnh. Đặt tấm kim loại đã
có dược liệu này lên một
lưới amiant có 1 lỗ tròn
đường kính khoảng 2 cm sao cho vòng kim
loại có dược liệu nằm trên
lỗ này. Đun nóng
nhẹ phía dưới lỗ cho đến khi
bột dược liệu bị cháy xém.
Nhấc phiến kính ra và để nguội. Quan sát hình dạng và
màu sắc của tinh thể chất
được thăng hoa đọng lại trên
phiến kính bằng kính hiển vi và/hoặc tiến
hành phản ứng hóa học thích
hợp đối với chất đã
được thăng hoa.
7.
Thử tinh khiết là cách kiểm tra
độ tinh khiết của dược liệu. Tùy từng
dược liệu mà thử tinh khiết
có thể bao gồm một số hay tất cả
các chỉ tiêu dưới đây:
a.
Mất
khối lượng do làm khô (Phụ lục 9.6 hay 12.13).
b.
Tro
toàn phần và tro không tan trong acid hydrocloric (Phụ lục 9.7 và 9.8).
c.
Các
tạp chất hữu cơ, các bộ phận khác
của dược liệu, các dược
liệu bị biến màu, hư thối (Phụ lục 12.11).
d.
Tỉ
lệ vụn nát của dược liệu (Phụ lục 12.12).
e.
Hàm
lượng kim loại nặng (Phụ lục 9.4.11).
f.
Dư
lượng các chất bảo vệ thực
vật (Phụ lục 12.17).
g.
Xác
định chất chiết được là
xác định hàm lượng các chất trong dược liệu có thể chiết
được bằng dung môi (nước,
ethanol hay một
dung môi khác) (Phụ lục 12.10)
8.
Định
lượng là việc xác định hàm
lượng một hay một số
chất có trong dược liệu
bằng phương pháp hóa học, lý
học hoặc sinh học. Định
lượng bao gồm cả việc
xác định hàm
lượng chất béo (Phụ lục12.9), tinh
dầu (Phụ
lục 12.7) và xác định hoạt lực bằng các phép thử sinh học.